KHOA HỌC ẤN ĐỘ: GIẢI PHÓNG TIỀM NĂNG |
05-04-2011 (theo Tiasang.com.vn) Bản báo cáo “Ấn Độ như một cường quốc khoa học” (India as a global leader in science), được Thủ tướng Manmohan Singh công bố vào tháng 9 vừa qua, cho rằng, khoa học của quốc gia này bị tổn hại nghiêm trọng bởi những cách hành xử quan liêu về hành chính và quản lý tài chính; đồng thời đưa ra những giải pháp để củng cố nền khoa học Ấn Độ trong đó việc giảm thiểu tiến tới loại bỏ thói quan liêu được coi là quan trọng hàng đầu.
Theo Bản báo cáo, vị thế của Ấn Độ trong cộng đồng khoa học thế giới đã giảm sút trong 20 năm qua. Tỉ lệ GDP dành cho R&D vẫn giậm chân tại chỗ trong 2 thập kỷ qua trong khi phần lớn các quốc gia châu Á năng động khác đã vượt qua Ấn Độ. 2/3 chi tiêu cho R&D của Ấn Độ là của Chính phủ, trong khi đó tại Hàn Quốc khoảng 30% ngân sách dành cho R&D là của Chính phủ, phần còn lại là của bên công nghiệp. Ngoại trừ lĩnh vực như dược phẩm, CNTT, ngành công nghiệp có vẻ như không đầu tư nhiều hoặc có nhiều đặt hàng cho khoa học Ấn Độ. Việc đầu tư cho khoa học không thoả đáng của cả Chính phủ và bên công nghiệp dẫn tới sự thiếu kết nối giữa các phòng nghiên cứu cơ bản và bên công nghiệp. Theo một cuộc điều tra của quốc gia, môn học được yêu thích nhất ở bậc phổ thông là toán học. Trong các kỳ thi Olympic quốc tế, sinh viên Ấn Độ xếp cùng nhóm với sinh viên các nước như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản về số huy chương đạt được trong toán học, còn trong sinh học, họ vượt qua Mỹ. Tuy nhiên, những thanh niên trẻ tài năng khi lựa chọn sự nghiệp họ ưu tiên hơn cho những ngành nghề khác vì họ nhìn thấy khoa học mang lại ít cơ hội hơn.
Tăng công bố quốc tế, bằng sáng chế Để đóng góp có ý nghĩa vào khoa học thế giới, các công bố quốc tế của Ấn Độ phải tăng từ 2% hiện nay lên 10% trong vòng 10 năm tới. Các nhà nghiên cứu Ấn Độ cũng cần đăng ký nhiều bằng sáng chế hơn nữa: từ 1900 bằng sáng chế quốc tế năm 2007 tăng lên mức 20.000 vào năm 2020. Mỗi năm Ấn Độ đào tạo 400.000 kỹ sư và 300.000 cử nhân công nghệ thông tin nhưng chỉ có 20.000 thạc sĩ và gần 1000 tiến sĩ. Trong năm 2007-2008, tỉ lệ nhà nghiên cứu tại Ấn Độ là 156 nhà nghiên cứu trên 1 triệu dân, tỉ lệ này ở Mỹ là 4.700/triệu dân. Phần lớn các cử nhân ngành kỹ thuật của Ấn Độ sau khi tốt nghiệp không học tiếp lên cao mà đi làm. Điều này dẫn tới thiếu hụt nguồn nhân lực cho các trường đại học cũng như nghiên cứu. Không thể có hệ thống giáo dục tốt nếu không có đội ngũ giáo viên giỏi. Trong khi tại các quốc gia như Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, nghề giáo là một nghề có tính cạnh tranh cao và rất được tôn trọng thì tại Ấn Độ nghề này không có sức hấp dẫn đối với thanh niên. Ở bậc giáo dục đại học, cần phải có sự kết hợp giữa Nhà nước và tư nhân trong đó bao gồm cả việc Nhà nước tạo ra thuế ưu đãi cho các nhà đầu tư để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Điều quan trọng là phải có những sáng kiến mới trong đào tạo kỹ thuật với sự trợ giúp cho các trường công nghệ để có thể thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học và kinh doanh. Bản báo cáo đưa ra một số tiêu chí để xây dựng cơ sở cho những đổi mới trong giáo dục đại học: Sự năng động của ban lãnh đạo đi liền với quyền tự chủ của các cơ sở này; Tạo điều kiện cho những nơi hoạt động tốt trang bị những cơ sở vật chất tốt nhất; Hình thành chính sách tuyển dụng riêng cho các khoa; Giảm thiểu sự can thiệp về chính trị; Thu hút đầu tư tư nhân; Kết hợp đào tạo cử nhân với nghiên cứu chất lượng cao; Giữ số lượng sinh viên ở mức quản lý được.. Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm CNC Trong những năm vừa qua, cơ cấu xuất khẩu của Ấn Độ đang thay đổi, các sản phẩm công nghệ cao bắt đầu tăng. Ví dụ như công nghiệp ô tô của Ân Độ đã vượt Trung Quốc vào năm ngoái, yếu tố chính làm nên sự phát triển này là trình độ tay nghề cao của nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này. Các vệ tinh của Ân Độ có giá rẻ hơn 25-30% của các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn chưa phải là quốc gia mạnh về xuất khẩu công nghệ cao. Trong giai đoạn 1995-2006, xuất khẩu trong lĩnh vực công nghệ cao của Ấn Độ tăng 4 lần (từ 1 tỉ USD lên 4.5 tỉ USD) nhưng cũng cùng thời gian này Brazil tăng gấp 8 lần và Trung Quốc tăng gấp 25 lần (gần 300 tỉ USD). Năm 2006, công nghệ cao chỉ chiếm 0,49% GDP của Ấn Độ và chỉ chiếm 0,23% xuất khẩu công nghệ cao của toàn cầu. Cùng với những chính sách đúng đắn khuyến khích đổi mới, sáng tạo và xuất khẩu công nghệ cao, chính phủ cần phải cung cấp tài chính đầy đủ cho những lĩnh vực ưu tiên mà Ấn Độ có khả năng cạnh tranh với thế giới. Kinh tế sáng tạo Trong thế giới công nghệ thay đổi nhanh chóng, đổi mới sáng tạo là chìa khoá cho phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế. Đổi mới, sáng tạo không chỉ thể hiện qua các bằng sáng chế, sản phẩm mới, mặc dù đây là những tiêu chí đánh giá quan trọng của đổi mới, sáng tạo. Nó còn là những ý tưởng, dịch vụ và ngay cả những mô hình kinh doanh mới. Các mạng xã hội như Facebook là những ví dụ về dịch vụ mới dựa vào công nghệ, trong khi đó Google lại là một mô hình kinh doanh sáng tạo (người sử dụng không phải trả phí dịch vụ). Ấn Độ đã có vai trò quan trọng trong đổi mới sáng tạo trên một số lĩnh vực. Ngành công nghệ thông tin của Ấn Độ đã tạo ra mô hình kinh doanh mới thông qua hoạt động làm dịch vụ cho nước ngoài, đã tạo ra thành công và sự tăng trưởng chưa từng có. Những đổi mới sáng tạo trong cộng đồng rất phát triển. Tuy nhiên những đổi mới sáng tạo này vẫn tăng thêm nhưng chỉ tập trung vào cải tiến, còn những đổi mới sáng tạo mang tính đột phá vẫn còn ít. Do vậy, Ấn Độ đã đưa ra những giải pháp để hình thành nền kinh tế sáng tạo bao gồm thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm cho các start-up; quỹ cho các ý tưởng đối mới sáng tạo tại các tổ chức nghiên cứu, trường đại học của Chính phủ; cho phép các nhà khoa học được nghỉ phép và có nguồn tài chính nhất định để thực hiện các ý tưởng của họ tại các doanh nghiệp; tạo ra những thay đổi trong chương trình học nhằm khuyến thích tư duy sáng tạo của học sinh; quỹ để khuyến khích các hoạt động sáng tạo trong xã hội; thúc đẩy mối liên kết giữa hàn lâm, các phòng thí nghiệm R&D và các doanh nghiệp… Giảm thiểu thói quan liêu trong hoạt động khoa học Hoạt động khoa học tại Ấn Độ đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các thói hành xử quan liêu và cách thức kiểm tra tài chính và hành chính cứng nhắc. Một trong những điều kiện quan trọng cho phát triển khoa học và loại bỏ hoặc giảm thiểu thói quan liêu, như Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh từng nói. Hội đồng tư vấn khoa học của Thủ tướng đề nghị thành lập Ủy ban cải cách hành chính trong khoa học bao gồm các nhà khoa học để cấu trúc lại hệ thống hành chính tại các trường đại học, phòng thí nghiệm quốc gia và các cơ sở nghiên cứu khoa học khác để đảm bảo tạo ra môi trường lành mạnh cho đào tạo và nghiên cứu. Việc cải tổ đặc biệt quan trọng trong hệ thống đại học công nơi cần có những cách thức mới trong bổ nhiệm, thăng tiến của nhân sự cao cấp, sự tự chủ lớn hơn của các cơ sở này, tóm lại là những đổi thay sâu sắc môi trường học thuật. Từ những thành tích nổi bật của một số trường đại học công và sự phồn vinh của khu vực tư nhân đang góp phần vào làm thay đổi bức tranh của khoa học Ấn Độ. Người ta hy vọng với cam kết tăng gấp đôi ngân sách cho khoa học của Chính phủ trong 10 năm tới và những chương trình cải cách nếu được tiến hành thành công sẽ tạo ra làn sóng mới về đầu tư và phát triển cho khoa học và giáo dục. Lê Ngọc tổng hợp
|