MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH BAN ĐẦU VỀ KHÁCH DU LỊCH NÔNG THÔN |
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH BAN ĐẦU VỀ KHÁCH DU LỊCH NÔNG THÔN
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển mà nông thôn là khu vực chịu tác động nhiều nhất. Chỉ xét riêng về tài nguyên đất nông nghiệp, công nghiệp hóa - đô thị hóa đã làm cho nông dân, nông nghiệp mất hàng trăm ngàn héc - ta đất mỗi năm. Từ đó vấn đề giải quyết việc làm cho người nông dân, tạo nguồn thu nhập thay thế, giúp họ “ly nông bất ly hương” là hết sức bức thiết. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực châu Á, việc người dân tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch ở những vùng nông thôn dưới sự hỗ trợ của chính phủ gọi là “Du lịch Nông thôn” đã đem lại những đóng góp đáng kể cho công cuộc phát triển nông thôn ở những quốc gia này . Ở Nhật Bản, từ những năm 1995, một chương trình nhà nghỉ nông thôn trên khắp đất nước dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông – Lâm – Thủy sản Nhật Bản đã góp phần làm hồi sinh vùng nông thôn của Nhật Bản vốn được xem là già cỗi và trì trệ từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ở Hàn Quốc, cũng có một chương trình du lịch nông thôn bắt đầu vào những năm 1994 từ một dự án của chính phủ nhằm tăng thu nhập cho nông dân. Ở Đài Loan, từ những năm 1998, du lịch nông thôn cũng đã trở thành một phần của phát triển nông thôn, góp phần tác động tích cực đến sự phát triển nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân và cải thiện mức sống ở những vùng nông thôn một cách có ý nghĩa. Năm 2006, Trung Quốc lấy “Du lịch Nông thôn” làm chủ đề năm du lịch của quốc gia nhằm chống đói nghèo và họ cũng được xem là quốc gia có qui mô tổ chức du lịch nông thôn lớn nhất thế giới. Ở nước ta, thời gian qua du lịch nông thôn chưa thật sự phát triển đúng hướng, tiềm năng du lịch nông thôn chưa được phát huy triệt để, một phần cũng do quan niệm về du lịch nông thôn rất khác nhau, việc khảo sát khách du lịch dành cho thị trường này cũng chưa được quan tâm, từ đó dẫn đến họat động của các chương trình, cơ sở kinh doanh du lịch dựa vào nông thôn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu đến quí vị một số thông tin mang tính chất nhận định ban đầu về khách du lịch nông thôn dựa trên một vài kết quả nổi bật từ cuộc khảo sát tiềm năng khách du lịch nông thôn trên 3 đối tượng học sinh – sinh viên và công chức địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của chúng tôi vào năm 2008. Những nhận định ban đầu này chủ yếu là làm sáng tỏ 2 câu hỏi lớn: Khách du lịch nông thôn họ là ai và họ nghĩ gì về du lịch nông thôn
Khách du lịch nông thôn – Họ là ai? Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có 2 quan niệm rất khác biệt về khách du lịch nông thôn. Cụ thể, đứng ở góc độ khách du lịch thì những ai đi du lịch về vùng nông thôn thì đều là khách du lịch nông thôn. Còn ở góc độ của những người tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch nông thôn thì chỉ có những ai đến vùng nông thôn nhằm thực hiện động cơ du lịch và có tiêu dùng ở nơi đó thì mới là khách du lịch nông thôn. Nguồn phát sinh khách du lịch nông thôn: Có 2 nguồn phát sinh khách du lịch nông thôn - Nguồn phát sinh khách du lịch nông thôn chủ yếu: + Nguồn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam: Khả năng di chuyển dễ dàng đã làm gia tăng lượng khách du lịch ngoại quốc đến các nước trên thế giới. Ngoài nhu cầu tìm hiểu lịch sử văn hóa đất nước viếng thăm, nhu cầu tìm hiểu thiên nhiên và con người và vùng nông thôn của nước đó cũng là một việc hết sức lý thú. + Nguồn khách du lịch từ các trung tâm đô thị: Đối với người dân trong nước, cuộc sống công nghiệp và hiện đại đã làm nãy sinh nhu cầu tham quan , du lịch, giải trí hướng về vùng nông thôn của họ. Chính vì thế các trung tâm đô thị là nơi phát sinh khách du lịch nông thôn chủ yếu. Họ các nhu cầu sau đây mà du lịch nông thôn cần phải đáp ứng: - Nhu cầu thư giãn, gần gũi thiên nhiên, hoạt động ngoài trời - Nhu cầu khám phá kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian - Nhu cầu thưởng thức ẩm thực dân gian, các món ăn cổ truyền, - Nhu cầu tìm hiểu các lễ hội truyền thống, các sản vật địa phương… - Nhu cầu tìm hiểu đời sống cư dân nông thôn - Nhu cầu trãi nghiệm thực tế - Nhu cầu khám phá - Nhu cầu chứng kiến - Nhu cầu tiếp xúc trực tiếp - Nhu cầu tham vấn cộng đồng - Nhu cầu từ thiện - Nhu cầu nghiên cứu, học tập - Nhu cầu thăm viếng gắn liền với địa danh, sự kiện, nhân vật Đặc biệt, các nhu cầu thư giãn, gần gũi thiên nhiên, hoạt động ngoài trời, khám phá kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, thưởng thức ẩm thực dân gian, các món ăn cổ truyền, tìm hiểu các lễ hội truyền thống, các sản vật địa phương phải một cách thực tế chứ không qua tái tạo, tái hiện. - Nguồn khách du lịch nông thôn bổ sung: ở những vùng nông thôn có điểm đến du lịch nông thôn nổi tiếng như thắng cảnh, khu bảo tồn, đền tưởng niệm, di tích lịch sử văn hóa, di sản thiên nhiên, văn hóa thế giới, đền đài, lăng tẩm, lễ hội mang tính vùng miền thì người dân cư ngụ tại chỗ là nguồn khách bổ sung cho du lịch nông thôn. Như vậy, khách du lịch nông thôn chủ yếu là khách ngoại quốc, người dân sống ở trung tâm đô thị và các đối tượng có nhu cầu tiếp cận nông thôn trực tiếp nhằm thỏa mãn các nhu cầu du lịch ở nông thôn và có tiêu dùng ở nơi đến như đã trình bày ở phần trên. Phần lớn họ là giới trẻ, có sức khỏe, thích thể hiện bản thân, thích thử sức, tìm tòi, khám phá, học hỏi. Các nhóm đối tượng học sinh, sinh viên, công chức thành thị thuộc phần lớn trong nhóm này.
Họ nghĩ gì về du lịch nông thôn
Khi được hỏi quan niệm của các đối tượng về du lịch nông thôn, tần suất các câu trả lời đồng ý du lịch nông thôn là thực hiện các hoạt động vui chơi giải trí ngoài trời ở vùng nông thôn là cao nhất. Trên 60% tần suất các câu trả lời ở 2 đối tượng học sinh và sinh viên, 52.9 % tần suất các câu trả lời ở đối tượng là công chức. Nghĩa là bất cứ hoạt động vui chơi giải trí nào họ thực hiện ở vùng nông thôn cũng đều là du lịch nông thôn. Đặc biệt là ở nhóm sinh viên, họ còn quan tâm đến việc tìm hiểu nông thôn nhất là tìm hiểu các giá trị văn hoá tinh thần ở nông thôn. Quan niệm đi du lịch về vùng nông thôn là góp phần bảo vệ môi trường nông thôn và tăng thu nhập cho người dân địa phương được chấp nhận với tần suất thấp nhất ở cả 3 nhóm đối tượng. Đây quả là một quan ngại lớn cho việc phát triển du lịch ở các vùng nông thôn ở nước ta nếu như ta không có một động thái nào làm thay đổi suy nghĩ của người đi du lịch. Những điều gây thích thú chính là động cơ để người du lịch tiến hành du lịch. Nó xuất phát từ việc muốn thực hiện động cơ du lịch dựa trên việc xác định tài nguyên du lịch và điều kiện của nơi đến có phù hợp với họ hay không. Hay còn gọi là giá trị thu hút của điểm đến. Với điểm đến là vùng nông thôn, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát nội dung này nhằm xác định rõ hơn những giá trị hấp dẫn nào của du lịch nông thôn sẽ được 3 đối tượng khảo sát chấp nhận. Câu trả lời có tần suất cao nhất ở cả 3 nhóm đối tượng là đi du lịch về vùng nông thôn để thưởng thức những món ăn dân dã, sau đó mới đến những phong cảnh đẹp và tìm hiểu văn hoá dân gian. Như vậy, cần đặc biệt chú trọng 3 sản phẩm này khi tiến hành một chương trình du lịch nông thôn, nhất là văn hoá ẩm thực dân gian của các dân tộc, vùng miền của đất nước Ngược lại với những điều thích thú, những điều không thích là những trở ngại làm hạn chế khách đến với vùng nông thôn. Kết quả khảo sát cả 3 nhóm đối tượng, điều làm họ không thích nhất là thiếu điều kiện chăm sóc sức khoẻ, thiếu vệ sinh, gia súc và vật nuôi thả rong, thiếu phương tiện thông tin, thiếu an ninh, những tập tục cổ hủ cũng như sự tò mò của người dân địa phương khi đến du lịch ở vùng nông thôn. Tất cả những hạn chế này cũng chính là hiện trạng của du lịch nông thôn hiện nay, như nạn chèo kéo khách du lịch, nạn cạnh tranh giá cả giữa các điểm tham quan... Theo kinh nghiệm ở các nước ở châu Phi và châu Mỹ La tinh, việc phát triển du lịch nông thôn cần một vai trò tổ chức của chính phủ, sự tham gia của cộng đồng nhằm thay đổi bộ mặt nông thôn phục vụ du lịch và nâng cao mức sống cũng như chất lượng cuộc sống của người dân ở nông thôn. Ngược lại, người dân và cộng đồng địa phương cũng phải thể hiện vai trò và trách nhiệm của mình trong tiến trình này bằng việc tham gia quản lý du lịch, thay đổi những tập quán và thói quen chưa tốt như thói quen tò mò nhìn khách du lịch đến địa phương, thả gia súc và vật nuôi, thực hiện nếp sống vệ sinh, gìn giữ môi trường… Về nhận định của các đối tượng như thế nào về xu hướng đi du lịch về vùng nông thôn sẽ ngày một nhiều hơn. Chúng tôi nhận được kết quả trả lời cũng tương đối khả quan. Hầu hết ở cả 3 nhóm đối tượng đều có câu trả lời trên 60% là chắc chắn và rất chắc chắn xu hướng du lịch về vùng nông thôn sẽ phát triển Về mức độ sẵn sàng đi du lịch nông thôn khi có chương trình du lịch nông thôn, trên 80% ở đối tượng học sinh và sinh viên là sẵn sàng và rất sẵn sàng, và trên 60% ở đối tượng công chức. Khi xem xét độ dài thời gian của một chuyến du lịch về vùng nông thôn, phần lớn các câu trả lời của 3 nhóm đối tượng đều là 2 đến 3 ngày. Thời điểm tổ chức đi du lịch của du khách có ảnh hưởng lớn đến kết quả và hiệu quả kinh doanh du lịch. Trong du lịch học gọi là tính thời vụ. Ở du lịch nông thôn, lịch thời vụ còn có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều vì nó liên quan đến thời tiết, khí hậu, mùa màng, hoạt động thường nhật của vùng nông thôn. Du khách đến vùng du lịch nông thôn vào mùa cây trái, mùa lúa chín thì sẽ thấy thú vị hơn những mùa cây ngưng trái hoặc đồng lúa vừa mới gặt xong. Theo khảo sát thì những đợt tổ chức du lịch của 2 nhóm đối tượng sinh viên và học sinh là mùa nghỉ hè, là một thuận lợi cho các hoạt động hái trái trong vườn ở nông thôn. Tuy nhiên, mùa hè là mùa hay mưa và sấm chớp nên việc đi lại rất khó khăn. Với đối tượng công chức thì thời gian nghỉ cuối tuần là thời gian đến với các vùng du lịch nông thôn. Dĩ nhiên là những vùng nông thôn có cự ly gần, thuận tiện giao thông sẽ được đến thăm. Đi du lịch nông thôn theo tuyến là điều khó thực hiện, vì thời gian cuối tuần chỉ trong khoảng 2 ngày 3 đêm. Chỉ có những điểm du lịch nông thôn hoặc cụm du lịch nông thôn trong cự ly gần mới có thể thu hút được đối tượng này Việc đi du lịch thường được tổ chức dưới nhiều hình thức. Nếu theo quan điểm du lịch học thì có hai dạng chủ yếu là tự túc và thông qua đại lý lữ hành. Khi khảo sát các cá nhân của từng nhóm đối tượng, kết quả đi du lịch thông qua công ty lữ hành là rất ít chỉ trên 10% ở nhóm đối tượng sinh viên và 5 – 6 % ở nhóm đối tượng học sinh và công chức. Phần còn lại 80 – 90 % là đi tự túc. Số câu trả lời đồng ý cao nhất là ở nội dung tổ chức đi theo nhóm ở cả 3 nhóm đối tượng, kế đến là gia đình. Việc này cũng là vấn đề nan giải của các điểm du lịch vì phải cố gắng làm hài lòng tất cả khách hàng khi họ có những sự khác nhau về độ tuổi, giới tính, lối sống, sức khoẻ và tâm lý… Bài học tổ chức du lịch nông thôn ở Đài Loan là một minh chứng, khi người ta cố chuyên biệt hoá từng khu du lịch theo từng loại hình thì vấn đề rắc rối lại xảy ra cho các thành viên đi trong gia đình. Vì bố mẹ muốn đi thưởng thức trà đạo thì con trẻ không thể đi bơi được và ngược lại. Điều này đã làm hạn chế hiệu quả kinh doanh du lịch nông thôn của Đài Loan. Cần đẩy mạnh hình thức tổ chức theo nhà trường, cơ quan hoặc thông qua công ty lữ hành. Những hình thức tổ chức theo gia đình thì cần có những thiết kế riêng và hướng dẫn cụ thể chu đáo để du khách chọn lựa Thông thường độ dài ngày đi, cự ly và hình thức tổ chức chuyến đi quyết định phương tiện đi du lịch. Ở các nhóm đối tượng còn có tính quyết định khác nữa là sở thích và điều kiện của từng nhóm đối tượng. Khi được hỏi nếu đi du lịch bạn sẽ đi bằng phương tiện gì thì câu trả lời rất hiển nhiên trong điều kiện và tình hình giao thông của nước ta hiện nay là đi xe gắn máy. Với phương tiện đi xe gắn máy thì cự ly xa nhất chỉ trên dưới 100km cho một chuyến đi du lịch 2 đến 3 ngày như kết quả khảo sát Cũng chính vì lẻ đó, khi khảo sát những tỉnh nào trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam được lựa chọn là điểm đến . Các tỉnh có tần suất lựa chọn cao là Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, Bình Dương và Tây Ninh. Bình Phước có lựa chọn thấp nhất có lẻ do đây là tỉnh có vị trí địa lý xa thành phố Hồ Chí Minh nhất, các đối tượng học sinh và sinh viên do khả năng đi xa còn hạn chế về nhiều mặt nên họ ít lựa chọn tỉnh này. Ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh lại là điểm lựa chọn của đối tượng công chức do phần lớn dịp nghỉ của đối tượng này là cuối tuần nên họ ít có xu hướng chọn nơi xa để đi du lịch. Đồng Nai lại là điểm yêu thích nhất của đối tượng học sinh, có lẻ nơi đây gần đây có khu du lịch thác Giang Điền, trở thành điểm đến lý tưởng của lứa tuổi học sinh. Đối với đối tượng sinh viên thì điểm đến nhiều lựa chọn nhất là tỉnh Long An, kế đến mới là Bà Rịa - Vũng Tàu. Ở đối tượng học sinh, phần lớn là đi theo gia đình hoặc nhà trường tổ chức nên mức quyết định chi xài không cao, và có gần 40% là chi theo gia đình . Ở nhóm đối tượng sinh viên, mức chi xài cho du lịch trong khoảng 100 ngàn đến 1 triệu đồng cho một chuyến đi. Ở đối tượng công chức, mức chi xài dàn trãi ở khắp các mức từ 100 ngàn cho đến 5 triệu đồng. Chứng tỏ, độ dao động chi của nhóm đối tượng này rất lớn. Tuy nhiên, việc chi bao nhiêu cho một chuyến đi vẫn chưa nói hết những khoản chi xài của du khách sẽ ở những phần nào, câu hỏi khảo sát mức phân bổ chi dùng cho một chuyến đi sẽ giúp chúng ta nắm rõ hơn các khoản chi của khách Đối với đối tượng học sinh là chi cho ăn uống, kế đến là hoạt động vui chơi và di chuyển. Đối với đối tượng sinh viên và công chức, sự phân bố các khoản chi tương đối tương đương nhau như khoảng 20% – 24 % cho di chuyển, 21% - 23%, cho chi phí nghỉ qua đêm, 24% - 29% cho ăn uống, 10% - 13% cho mua sắm, 9% -13% cho hoạt động vui chơi, 5% - 6 % cho chi khác. Chi khác và chi mua sắm là các khoản chi ngoài các khoản chi cố định là đi lại, ăn uống, nghỉ qua đêm và các hoạt động du lịch đó là các khoản chi mua sắm thức ăn, sản phẩm địa phương và hàng lưu niệm. Chỉ có nhóm đối tượng công chức và sinh viên là có khoản chi này. Tuy nhiên tỉ lệ không cao nên việc bán các sản phẩm địa phương và hàng lưu niệm cần phải có những chương trình hỗ trợ phát triển Nơi tổ chức ăn uống ngoài trời được ưa chuộng nhất ở cả 3 nhóm đối tượng. Như vậy, việc tổ chức ăn uống nơi du lịch cần được lưu ý và tính toán kỹ vừa đáp ứng được vẻ mỹ quan, vệ sinh an toàn vừa đáp ứng thị hiếu của khách. Có trên 40% câu trả lời của 2 nhóm đối tượng sinh viên và công chức chọn nơi nghỉ đêm là nhà nghỉ nông thôn, kế đến là nghỉ ở nơi cắm trại, nghỉ trong làng và nghỉ ở nhà dân. Ti – vi là kênh quảng bá hữu hiệu nhất theo sự lựa chọn của 3 nhóm đối tượng, kế đến là Internet, kênh tiếp thị của công ty lữ hành và báo chí, đối tượng sinh viên vẫn cho là kênh quảng bá qua radio cũng có hữu hiệu. Riêng đối với đối tượng học sinh thì không có lựa chọn nào ở kênh này Tóm lại, khách du lịch nông thôn là khách ngọai quốc đến Việt Nam, người sinh sống, làm việc ở khu vực đô thị có trình độ nhận thức cao và có nhu cầu tiếp cận nông thôn một cách trực tiếp. Họ sẵn sàng tham gia các chương trình du lịch nông thôn nhằm thỏa mãn các nhu cầu du lịch của mình ở vùng quê, điểm đến sẽ là những nơi còn lưu giữ bản sắc văn hóa dân gian, phong cảnh thiên nhiên, họat động hấp dẫn, có điều kiện an ninh, vệ sinh, môi trường sống trong lành, chăm sóc sức khỏe tốt và tránh những tập tục, thói quen chưa tốt của người dân địa phương…Trong giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi chưa có điều kiện khảo sát các nội dung này với đối tượng khách ngọai quốc và mở rộng ra một số đối tượng khác như người cao tuổi, hưu trí…Nếu làm được điều đó chắc hẳn sẽ mang đến một cái nhìn toàn diện hơn về khách du lịch nông thôn. Ngày 22 tháng 09 năm 2009 Bùi Thị Lan Hương |