TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NGÀNH Y HỌC THỦY LIỆU PHÁP Ở VIỆT NAM |
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NGÀNH Y HỌC THỦY LIỆU PHÁP TRÊN CƠ SỞ CÁC NGUỒN NƯỚC KHOÁNG Ở VIỆT NAM VÕ CÔNG NGHIỆP1, CAO THẾ DŨNG2, TRẦN TỬ AN3 1Hội Địa chất Thuỷ văn Việt Nam Tóm tắt: Việt Nam có nguồn tài nguyên nước khoáng phong phú và đa dạng, có giá trị sử dụng vào các mục đích khác nhau, trước hết là để dùng chữa bệnh, điều dưỡng. Trên thực tế hơn nửa thế kỷ qua, một số nguồn đã được khai thác phục vụ có hiệu quả yêu cầu chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tiếc rằng do chưa có sự quan tâm đúng mực của các cơ quan hữu trách, các hoạt động trên lĩnh vực thủy liệu pháp ở nước ta đến nay vẫn chưa có điều kiện phát triển kịp với những đòi hỏi kinh tế-xã hội hiện đại. I. GIỚI THIỆU Việt Nam có nguồn tài nguyên nước khoáng (NK) phong phú và đa dạng, có giá trị sử dụng vào các mục đích khác nhau, trước hết là chữa bệnh - điều dưỡng nhằm chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Tiếc rằng tiềm năng đó chưa được khai thác một cách có hiệu quả để phục vụ lợi ích kinh tế - dân sinh. Trước thực trạng đó, nhiều nhà khoa học địa chất và y tế có tâm huyết đã không ít lần lên tiếng đề xuất kiến nghị với các cơ quan hữu trách đầu tư phát triển ngành y học quan trọng này nhằm đáp ứng yêu cầu đang ngày càng tăng của xã hội. Trong bài viết này, các tác giả, với tư cách là những nhà địa chất và y học đã nhiều năm gắn bó với lĩnh vực khoa học địa chất NK và thuỷ liệu pháp NK, xin một lần nữa kiến nghị với các cơ quan chức năng, trước hết là Bộ Y tế, quan tâm vực dậy và tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ ngành y học thuỷ liệu pháp trên cơ sở nguồn tài nguyên nước khoáng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng nhân dân ta. Để luận chứng cho khả năng xây dựng và phát triển ngành y học thuỷ liệu pháp NK, chúng tôi xin phân tích những điều kiện thiết yếu về tài nguyên, cơ sở vật chất - kỹ thuật và nhu cầu xã hội đối với việc chữa bệnh - điều dưỡng bằng NK ở Việt Nam. II. KHÁI QUÁT VỀ TIỀM NĂNG TÀI NGUYÊN NƯỚC KHOÁNG CỦA VIỆT NAM Do hiện nay còn có những cách hiểu khác nhau về NK nên trước tiên cần thống nhất khái niệm NK là gì? Theo chúng tôi "Nước khoáng là những loại nước thiên nhiên hình thành trong lòng đất trong những điều kiện địa chất, địa chất thuỷ văn đặc biệt, có thành phần và tính chất ổn định, khác biệt với nước thông thường”. Sự khác nhau đó thể hiện ở một số đặc điểm sau đây: - Độ khoáng hoá cao: chứa một hay một số hợp chất, nguyên tố vi lượng thiết yếu cho sự sống với hàm lượng lớn; - Nhiệt độ, độ phóng xạ cao, bão hoà khí tự nhiên, ... Bảng 1. Các loại nước khoáng ở Việt Nam
Ghi chú: 1*: Trước đây các nhà ĐCTV còn phân biệt thêm 2 loại: NK arsen và NK sắt, nhưng những công trình nghiên cứu mới nhất cho thấy chưa đủ căn cứ nên chúng tôi tạm đưa chúng ra khỏi bảng phân loại; 2*: Một nguồn NK có thể được xếp vào 2-3 loại NK khác nhau do chứa đồng thời 2-3 yếu tố đặc hiệu. Do vậy tổng số nguồn ở đây lớn hơn 299; 3*: NK khoáng hóa là loại nước chỉ có tổng khoáng hóa (TDS) cao, ngoài ra không có một yếu tố đặc hiệu nào khác; 4*: Nước khoáng nóng ở đây được hiểu là loại nước chỉ có nhiệt độ cao, ngoài ra không có một yếu tố đặc hiệu nào khác. Do đó nước có hoạt tính sinh học và tác dụng dược lý nên có giá trị chữa bệnh hay tăng cường sức khoẻ cho con người [16]. Định nghĩa về nước khoáng nêu trên đã được cụ thể hoá thành những chỉ tiêu định danh và tiêu chuẩn định lượng, áp dụng phổ biến trong ngành Địa chất và Y tế từ trước đến nay. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trên toàn lãnh thổ nước ta có khoảng 400 nguồn nước khoáng, phần lớn là những mạch lộ trên mặt đất, một số được phát hiện trong các lỗ khoan, trong đó 287 nguồn đã được điều tra, có kết quả phân tích mẫu tương đối đầy đủ, được Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đăng ký, lập thành danh bạ, xuất bản năm 1998 [19]. Đến năm 2007, có thêm 12 nguồn mới được phát hiện thêm, nâng tổng số lên 299 nguồn. Dựa theo thành phần, tính chất đặc biệt của các nguồn NK đã được nghiên cứu, các nhà địa chất thuỷ văn Việt Nam đã phân chúng thành 11 loại. Những thông tin chủ yếu về các yếu tố đặc hiệu, địa bàn phân bố của chúng được nêu trong Bảng 1. III. HIỆN TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG SỬ DỤNG CÁC NGUỒN NƯỚC KHOÁNG VÀO MỤC ĐÍCH CHỮA BỆNH - ĐIỀU DƯỠNG Những vấn đề trình bày trên đây cho thấy không một vùng nào trên lãnh thổ Việt Nam mà không có ít ra là một vài nguồn NK. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác sử dụng phục vụ yêu cầu tại chỗ ở các địa phương. Với 11 loại NK đã được phát hiện, có thể nói Việt Nam là nơi hội tụ của hầu hết các loại NK chính được biết trên thế giới, khiến cho phạm vi chỉ định của NK Việt Nam được mở rộng đối với nhiều loại bệnh khác nhau. Ngoài sự đáp ứng yêu cầu chữa bệnh tập trung tại các bệnh viện và trung tâm điều dưỡng, nhiều nguồn NK ở nước ta có chất lượng tốt (độ khoáng hoá vừa phải, có vị ngon, chứa nhiều nguyên tố có ích, ...) có thể đóng chai thành dược phẩm hoặc thực phẩm chức năng bán ra thị trường, phục vụ rộng rãi người tiêu dùng, ví dụ NK fluor - dùng để phòng bệnh sún răng, xốp xương, NK iod - phòng chống bệnh bướu cổ, NK cacbonic Cr - có lợi cho đường tiêu hoá, .... Ngoài ra, cũng phải kể đến một nguồn tài nguyên quý thường đi kèm với NK - đó là những tích tụ bùn khoáng (BK) hình thành tại nơi xuất lộ NK - cũng có tác dụng chữa bệnh rất tốt bằng các liệu pháp chườm đắp, ngâm vùi, ... đồng thời có thể chế biến thành hàng mỹ phẩm (kem dưỡng da). Loại bùn này rất phong phú ở các nguồn NK Bình Châu, Đảnh Thạnh, Nghĩa Thuận, ... Có nhiều nguồn NK nằm trùng với những danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng, có thể khai thác phục vụ du lịch chữa bệnh, kết hợp du lịch sinh thái. Điều đó nói lên rằng sự phát triển ngành y học thuỷ liệu pháp NK không chỉ có ý nghĩa xã hội, mà đồng thời cũng là một hoạt động kinh tế rất có triển vọng ở nước ta. Trong thực tế, từ thời xa xưa, nhân dân ta đã biết đến giá trị y học của NK và sử dụng nó vào mục đích chữa bệnh một cách tự phát. Trong thời kháng chiến chống Pháp, ngành y tế đã dùng NK Kênh Gà để chữa trị thương tật cho thương bệnh binh. Nhưng phải đến những năm 1973-1974, ba cơ sở điều dưỡng tương đối chính quy mới được xây dựng tại các nguồn NK Mỹ Lâm (Tuyên Quang), Quang Hanh (Quảng Ninh) và Mớ Đá (Hoà Bình). Tuy quy mô nhỏ bé (mỗi cơ sở có 50-60 giường), nhưng có thể xem đây là những viên gạch đặt nền móng cho lĩnh vực điều dưỡng học thuỷ liệu pháp ở nước ta. Sau ngày miền Nam giải phóng, một cơ sở thứ tư được xây dựng tại Hội Vân (Bình Định) và muộn hơn là cơ sở điều dưỡng Mỹ An (Thừa Thiên - Huế). Các công trình thử nghiệm lâm sàng sử dụng NK và BK từ nguồn Đảnh Thạnh (Khánh Hoà), Phước Thọ (Quảng Ngãi) do các cơ quan y tế địa phương tiến hành trong những năm 1980-1985 cũng đem lại hiệu quả tốt [6, 11]. Theo số liệu thống kê, kết quả chữa bệnh của các cơ sở điều dưỡng trên, NK và BK có tác dụng tốt đối với các loại bệnh (tuỳ theo từng loại nước) như: xương khớp (tê thấp, viêm), thần kinh, tiêu hoá, tim mạch, da liễu, chấn thương, một số bệnh phụ khoa, bệnh nghề nghiệp... [5-7, 9, 11, 12, 15, 16]. Đáng tiếc là mãi đến nay việc chữa bệnh - điều dưỡng bằng thuỷ liệu pháp NK vẫn hầu như giẫm chân tại chỗ, thậm chí đi thụt lùi so với sự phát triển chung của xã hội. Dù sao từ những hoạt động của các cơ sở đầu tiên đó đã hình thành những hạt nhân cho ngành thuỷ liệu pháp NK và BK ở nước ta gồm một số bác sĩ, y sĩ chuyên khoa và điều dưỡng viên ít nhiều có kinh nghiệm, có thể làm chỗ dựa cho sự phát triển lĩnh vực y học này trong thời gian tới. Việc khai thác các nguồn NK phục vụ du lịch kết hợp chữa bệnh cũng bắt đầu phát triển trong những năm gần đây. Đến nay theo số liệu chưa đầy đủ, hiện có 8 cơ sở đang hoạt động, chẳng những có sức thu hút đông đảo khách nội địa mà còn là đối tượng hấp dẫn với khách quốc tế như Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu), Tân Mỹ (Ninh Thuận), Tháp Bà (Nha Trang), Tu Bông (Khánh Hoà), Thanh Tân (Thừa Thiên Huế), Thanh Hà (Hà Giang), Hua Pe (Lai Châu), Tản Đà (Hà Nội). Ở đây chưa kể đến việc sử dụng NK vào mục đích khác cũng có kết quả khả quan như đóng chai làm nước giải khát, hoặc có nhiều hứa hẹn như khai thác năng lượng (địa nhiệt), trích ly một số hoá chất công nghiệp (sođa, Br, I, ...), nuôi trồng thuỷ sản (tôm, cá, tảo). Như vậy là NK đã đi vào cuộc sống với những bước đi ban đầu đầy khích lệ, tuy nhiên hãy còn ở mức độ rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Vì vậy để cho nguồn tài nguyên quý này phát huy tác dụng phục vụ tốt hơn các nhu cầu kinh tế - xã hội, trong thời gian tới cần chú ý đẩy mạnh điều tra nghiên cứu và khai thác sử dụng nó nhằm góp phần xây dựng nên ngành điều dưỡng học thuỷ liệu pháp và du lịch NK phát triển ở nước ta. Với ý tưởng đó, chúng tôi đề xuất sơ bộ những công việc chủ yếu cần làm trong thời gian tới như sau: 1. Trên cơ sở các kết quả tài liệu cơ bản về NK của ngành Địa chất đã được tổng kết, chọn ra những nguồn có triển vọng nhất tiến hành việc điều tra chi tiết thêm nhằm đánh giá kỹ hơn về lượng cũng như về chất lượng của chúng, kể cả BK là một đối tượng mà trước đây chưa được chú ý. 2. Trong số những đối tượng điều tra, quan trọng nhất là những nguồn đang được khai thác sử dụng (đã nêu trên), sẽ thu thập các số liệu thống kê nhiều năm về hiệu quả chữa bệnh, điều dưỡng, du lịch, đóng chai (và các mục đích sử dụng khác nếu có). Đó là nguồn tài liệu thực tế quý giá để nhận định về tác dụng của NK. Từ đó, bằng phương pháp so sánh tương tự (kể cả theo kinh nghiệm nước ngoài) sẽ đánh giá khái quát về giá trị sử dụng của các nguồn NK hiện chưa được khai thác; biên soạn cẩm nang điều trị - điều dưỡng học cho từng loại, từng nguồn NK và BK trong toàn quốc. 3. Từ các kết quả điều tra sẽ lập quy hoạch tổng thể phát triển ngành điều dưỡng học thuỷ liệu pháp và du lịch NK trên quy mô toàn quốc và từng vùng trọng điểm. Dựa vào quy hoạch và sự phân tích các nhu cầu kinh tế - xã hội sẽ xác định những nguồn ưu tiên đầu tư thăm dò, đánh giá trữ lượng đầy đủ. Trên cơ sở đó sẽ xây dựng các trung tâm điều trị - điều dưỡng kết hợp du lịch chữa bệnh, du lịch sinh thái và đưa vào khai thác nhằm đáp ứng yêu cầu chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ và nghỉ ngơi - giải trí của nhân dân. Việc chọn vị trí và quy mô xây dựng các cơ sở điều trị - điều dưỡng - du lịch sẽ được quyết định chính thức sau khi có kết quả thăm dò địa chất và đánh giá về mặt y học cũng như giá trị du lịch, song theo dự đoán sơ bộ của chúng tôi có thể nhằm vào những địa bàn chính sau đây: 1. Ở quy mô quốc gia hoặc khu vực Sẽ xây dựng các trung tâm lớn và vừa tại những vùng có nguồn NK trữ lượng lớn, chất lượng tốt, cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, cơ sở hạ tầng thuận lợi, có khả năng thu hút đông người, kể cả khách quốc tế, đó là: a. Vùng Hạ Long: dựa trên các nguồn NK brom nóng Quang Hanh, Tam Hợp, kết hợp điều dưỡng sinh khí hậu, du lịch sinh thái biển - hải đảo trong quần thể di sản thiên nhiên thế giới Hạ Long. b. Vùng Huế: dựa trên các nguồn Mỹ An (NK sulfur-fluor), Thanh Phước (nước khoáng hoá - sođa nóng), Thanh Tân (NK silic nóng); kết hợp du lịch sinh thái vườn quốc gia Bạch Mã, du lịch văn hoá trong quần thể di sản thế giới cố đô Huế. c. Vùng Nha Trang: dựa trên các nguồn Vĩnh Phương (NK silic nóng), Phước Trung (NK silic-fluor nóng), Đảnh Thạnh (NK silic-fluor nóng), suối Dầu (NK silic-fluor nóng); kết hợp điều dưỡng sinh khí hậu, du lịch sinh thái biển - hải đảo và du lịch văn hoá Chăm. d. Vùng Bình Châu: dựa trên các nguồn Bình Châu (NK silic-fluor - phóng xạ, nóng), Phước Lễ (NK carbonic-silic), Suối Nghệ (NK carbonic-silic - phóng xạ), kết hợp điều dưỡng sinh khí hậu, du lịch sinh thái vườn quốc gia Bình Châu - Phước Bửu, du lịch biển Long Hải - Vũng Tàu. 2. Ở quy mô địa phương Sẽ xây dựng các cơ sở nhỏ và vừa ở từng tỉnh hoặc liên tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu địa phương. Đương nhiên việc xây dựng không thể làm ồ ạt một lúc mà tuỳ điều kiện kinh tế và khả năng tài chính. Nguồn vốn đầu tư có thể dựa vào ngân sách Nhà nước hoặc địa phương và huy động từ các doanh nghiệp tư nhân, các công ty liên doanh (kể cả với nước ngoài), ... Trên đây là bức tranh phác hoạ tổng quan viễn cảnh của ngành thuỷ liệu pháp NK Việt Nam trong khoảng 10-15 năm tới, mà muốn nó trở thành hiện thực cần có thời gian và khoản đầu tư lớn. Đó cũng là bức tranh phác họa tổng quan viễn cảnh của ngành thuỷ liệu pháp NK Việt Nam trong khoảng 10-15 năm tới, mà muốn nó trở thành hiện thực cần có thời gian và khoản đầu tư lớn.
Bảng 2. Những nguồn nước khoáng đang khai thác và có triển vọng khai thác
Ghi chú: * Những nguồn đang khai thác, sử dụng [19]. Thông tin chi tiết về từng nguồn tìm xem trong [19] hoặc truy cập website http://www.idm.gov.vn.
16. Phạm Đình Thọ, 1985. Nghiên cứu nước khoáng Quang Hanh dùng để giải khát và chữa bệnh. BC tại HNKH về nước khoáng toàn quốc lần I. Hà Nội. |