Advertisement
  • English
  • Vietnamese

TIN HOẠT ĐỘNG - STDe

"CHỮA LÀNH VỚI THIÊN NHIÊN" ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG "CHỮA LÀNH VỚI THIÊN NHIÊN" ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TỌA ĐÀM "CHỮA LÀNH VỚI THIÊN NHIÊN: GÓC NHÌN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH" TỌA ĐÀM "CHỮA LÀNH VỚI THIÊN NHIÊN: GÓC NHÌN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA KHOA HỌC..
"CHỮA LÀNH VỚI THIÊN NHIÊN": GÓC NHÌN TỪ KHOA HỌC LIÊN NGÀNH "CHỮA LÀNH VỚI THIÊN NHIÊN": GÓC NHÌN TỪ KHOA HỌC LIÊN NGÀNH
Xem Tiếp...

Tin du lịch

Thành phố cô đơn nhất Trung Quốc sở hữu vô vàn cảnh đẹp say đắm lòng người Thành phố cô đơn nhất Trung Quốc sở hữu vô vàn cảnh đẹp say đắm lòng..
Hòn đảo tặng dê miễn phí cho bất kỳ du khách nào bắt được Hòn đảo tặng dê miễn phí cho bất kỳ du khách nào bắt được
Xem Tiếp...
NGHIÊN CỨU DI SẢN ĐỊA CHẤT VÀ XÂY DỰNG CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT Ở VIỆT NAM

1LA THẾ PHÚC, 2TRẦN TÂN VĂN (1Bảo tàng Địa chất, 2Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản)

Tóm tắt: Việc điều tra, nghiên cứu di sản địa chất, thành lập khu bảo tồn địa chất và xây dựng công viên địa chất nhằm mục đích bảo tồn, quản lý và khai thác hợp lý di sản địa chất cho sự phát triển bền vững của đất nước. Các nhà khoa học địa chất Việt Nam đã thực hiện khá tốt việc điều tra, nghiên cứu di sản địa chất, đã tiếp cận, nhận diện, mô tả, phân loại hàng trăm di sản địa chất phù hợp với yêu cầu giao lưu hội nhập quốc tế; đã đề nghị thành lập và xếp hạng các di sản địa chất và các khu bảo tồn địa chất; đề nghị xây dựng các công viên địa chất. Tuy nhiên, thực trạng quá trình nghiên cứu di sản địa chất ở Việt Nam được phát triển với tốc độ rất chậm so với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, do nhiều nguyên nhân. Cho tới nay, nước ta chưa có khu bảo tồn địa chất nào được chính thức thành lập, chưa có công viên địa chất nào được xây dựng.

I. MỞ ĐẦU

Di sản địa chất (DSĐC) là phần tài nguyên địa chất có giá trị nổi bật về khoa học, giáo dục, thẩm mỹ và kinh tế. Chúng bao gồm các cảnh quan địa mạo, các miệng núi lửa đã tắt hoặc đang hoạt động, các hang động, hẻm vực sông, hồ tự nhiên, thác nước, các diện lộ tự nhiên hay nhân tạo của đá và quặng, các di chỉ cổ sinh; các thành tạo, cảnh quan còn ghi lại những biến cố, bối cảnh địa chất đặc biệt; các địa điểm mà tại đó có thể quan sát được các quá trình địa chất đã và đang diễn ra hàng ngày, thậm chí cả các khu mỏ đã ngừng khai thác v.v…  DSĐC là di sản quan trọng hàng đầu trong số các di sản thiên nhiên. Cũng như các di sản khác, DSĐC là tài nguyên không tái tạo được, cho nên cần được bảo tồn, quản lý và khai thác sử dụng hợp lý cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Hội nghị quốc tế lần thứ hai về Bảo tồn di sản địa chất và cảnh quan thiên nhiên họp tại Malvern (nước Anh) vào tháng 7/1973 đã đi đến một Hiệp ước về Bảo tồn DSĐC. Việc phân loại DSĐC được thực hiện theo Tiêu chuẩn phân loại tạm thời các DSĐC của UNESCO gồm 10 kiểu như sau: A. Cổ sinh; B. Địa mạo; C. Cổ môi trường; D. Đá (magma, trầm tích, biến chất); E. Địa tầng; F. Khoáng vật (Khoáng sản); H. Kinh tế địa chất; I. Kiến tạo (lịch sử địa chất); K. Các vấn đề vũ trụ; L. Những đặc trưng địa chất tầm cỡ lục địa/đại dương [10].

Năm 1997, UNESCO đã đề nghị thành lập Chương trình Công viên Địa chất (UNESCO Geoparks Program) trên phạm vi toàn cầu nhằm mục đích bảo vệ an toàn các DSĐC có tầm quan trọng quốc tế và phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của các khu vực. Mạng lưới toàn cầu về Công viên Địa chất đã được thiết lập. UNESCO đã ban hành nội dung tự đánh giá để đăng ký vào mạng lưới công viên địa chất (CVĐC) quốc tế của UNESCO, gồm 5 tiêu chí: 1. Địa chất và phong cảnh; 2. Hệ thống quản lý; 3. Thông tin và giáo dục môi trường; 4. Địa chất du lịch; 5. Kinh tế khu vực bền vững. Mỗi tiêu chí bao hàm nhiều nội dung, mỗi nội dung tương ứng với một thang điểm [11].

DSĐC đã được các nhà khoa học địa chất Việt Nam chú ý nghiên cứu trong các dự án điều tra cơ bản về địa chất - khoáng sản. Các DSĐC độc đáo, có giá trị nổi bật về địa mạo (như các cảnh quan địa mạo kỳ vĩ, các hang động karst kỳ thú), cổ sinh, địa tầng, magma, kiến tạo, khoáng vật… đã được các nhà địa chất Việt Nam xác lập và khoanh định điển hình - là điểm đến của các du khách, của các nhà khoa học đến tham quan nghiên cứu trong các kỳ Hội nghị khoa học địa chất trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu về DSĐC theo đúng nghĩa của nó mới thực sự được Bảo tàng Địa chất đề xuất từ năm 1998.

Nghiên cứu DSĐC, thành lập các khu bảo tồn địa chất (KBTĐC) và xây dựng CVĐC là 3 giai đoạn kế tiếp nhau của một quá trình nghiên cứu phát triển DSĐC, là xu thế khách quan, là logic tất yếu của công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này. Thực chất đó là một quá trình nghiên cứu triển khai nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ bảo tồn, quản lý và khai thác hợp lý DSĐC, di sản thiên nhiên cho sự phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước.

II. HIỆN TRẠNG NGHIÊN CỨU VÀ BẢO TỒN DI SẢN ĐỊA CHẤT Ở VIỆT NAM

1. Công tác nghiên cứu DSĐC, thành lập các KBTĐC ở Việt Nam

Những năm gần đây, tiếp thu xu hướng mới của thế giới về bảo tồn thiên nhiên, các nhà địa chất Việt Nam (thuộc Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Viện Tài nguyên và Môi trường Biển, Bảo tàng Địa chất, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội) đã bắt đầu có những hoạt động điều tra, nghiên cứu các DSĐC tiến tới thành lập các KBTĐC và xây dựng CVĐC.

- Các nhà địa chất ở Viện Tài nguyên và Môi trường Biển, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam hợp tác với các nhà địa chất Hoàng gia Anh đã có những hoạt động cụ thể trong việc nghiên cứu DSĐC và xây dựng hồ sơ trình duyệt và quảng bá giúp cho Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới lần thứ 2 vào năm 2000 (theo tiêu chí về địa chất - địa mạo) [3, 4, 9].

- Các nhà địa chất ở Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội kết hợp với các nhà nghiên cứu hang động của Hội Địa lý Hoàng gia Anh đã triển khai nghiên cứu tính phong phú, đa dạng về địa chất, hang động và xây dựng hồ sơ Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới vào năm 2003 [5]. Kết quả của nhiều năm hợp tác nghiên cứu đã đưa đến việc xuất bản cuốn chuyên khảo lớn “Kỳ quan hang động Việt Nam” [2]. Đây là một tài liệu quý và đồ sộ về kết quả nghiên cứu hang động Việt Nam. Ngoài ra, để mở rộng nghiên cứu và phát triển du lịch, các tác giả của Trường đã triển khai nhiều đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia và nhiều đề tài khác (cấp tỉnh) phục vụ du lịch sinh thái ở nhiều địa phương.

 

- Từ năm 1998, các nhà địa chất ở Bảo tàng Địa chất đã hợp tác với các nhà nghiên cứu của Đại học Colorado at Boulder và Sở Địa chất Hoa Kỳ triển khai một loạt hoạt động điều tra, nghiên cứu theo hướng bảo tồn các DSĐC ở nhiều vùng của Việt Nam. Đặc biệt, đề án “Nghiên cứu các KBTĐC ở Việt Nam” (2001-2004) do PGS. TSKH. Trịnh Dánh làm chủ nhiệm là đề án đầu tiên nghiên cứu theo hướng bảo tồn DSĐC. Kết quả sơ bộ của Đề án đã khẳng định Việt Nam rất có tiềm năng về DSĐC. Việt Nam hầu như có đầy đủ 10 kiểu DSĐC theo Tiêu chuẩn phân loại tạm thời các DSĐC phục vụ việc xây dựng Danh sách dự kiến các vị trí địa chất có giá trị nổi bật toàn cầu theo Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO. Các DSĐC phân bố rộng khắp trên 8 khu vực của Việt Nam, bao gồm: Đông Bắc Bộ, Sông Hồng - Sông Chảy, Tây Bắc Bộ, Bắc và Trung Trung Bộ, Cao nguyên Nam Trung Bộ, Tây Ninh và Đông Nam Bộ, ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ và Vịnh Thái Lan. Các tác giả của đề án đã thống kê được 355 biểu hiện địa chất lý thú kiểu di sản, nhưng do thời gian thi công và kinh phí có hạn nên chỉ tiến hành 4 đợt thực địa khảo sát tại 32 địa điểm trên toàn quốc, nghiên cứu và sắp xếp được 182 biểu hiện địa chất vào 10 kiểu DSĐC nêu trên [10],  trong số đó có 20 DSĐC (thuộc 4 kiểu di sản: cổ sinh, địa mạo, đá và địa tầng) đã được mô tả chi tiết kèm theo băng hình tư liệu. Đề án đã đưa ra một số đề nghị: 1. Tổ chức thẩm định để công nhận, xếp hạng cho 20 DSĐC (trong đó có đề nghị xếp hạng 2 DSĐC cấp quốc gia đặc biệt) và 15 KBTĐC Việt Nam; 2. Xây dựng thí điểm 2 CVĐC ở Tuy An (Phú Yên) và Bình Sơn (Quảng Ngãi); 3. Xác lập “Chương trình điều tra nghiên cứu DSĐC ở Việt Nam” nhằm thành lập các KBTĐC và CVĐC. Để làm tốt việc này, đề nghị thành lập “Trung tâm nghiên cứu và khai thác các DSĐC” tiến tới tham gia “Mạng lưới CVĐC toàn cầu”[10].

 

 

Hiện nay, Bảo tàng Địa chất đang thực hiện đề tài: Nghiên cứu di sản địa chất và bảo vệ môi trường khu vực thác Trinh Nữ, huyện Cư Jut, tỉnh Đắk Nông, Việt Nam” do UNESCO tài trợ.

 

- Cũng theo hướng này, các nhà địa chất ở Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã và đang có những hoạt động nghiên cứu hữu hiệu:

+ Từ năm 1991 đến nay, Viện đã hợp tác cùng các nhà nghiên cứu hang động Vương quốc Bỉ, khảo sát được gần 300 hang động trong phạm vi các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Thanh Hóa, Ninh Bình, Bắc Cạn, Yên Bái và Hà Giang v.v.. Kết quả đã phát hiện nhiều hang động có giá trị địa chất, khảo cổ, du lịch v.v., như hang Hoa (Tủa Chùa, Lai Châu), hang Nữ Hoàng (Sơn La), hang Rồng (Tân Lạc, Hòa Bình), hang Cống Nước (Tam Đường, Lai Châu) sâu nhất Đông Nam Á (-602 m) v.v..

+ Cùng với các nhà khoa học của nhiều chuyên ngành khác nhau, thuộc nhiều trường đại học của Vương quốc Bỉ và Sở Địa chất Bỉ, Viện đã thực hiện liên tiếp 2 dự án hợp tác Việt-Bỉ về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đá vôi: 1. Phát triển nông thôn các vùng miền núi đá vôi Tây Bắc Bộ bằng các biện pháp quản lý bền vững đất, nước và giáo dục cộng đồng (VIBEKAP, 1998-2003); và 2. Tăng cường sự trao đổi giữa các bên tham gia trong việc bảo tồn cảnh quan đá vôi Pu Luông - Cúc Phương (2002-2006) [7, 8]. Đặc biệt, ngày 21/6/2007, cùng với các đối tác Bỉ và Việt Nam (Viện Dân tộc học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và UBND các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn), Viện đã chính thức khởi động dự án hợp tác Việt-Bỉ thứ ba “Nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển CVĐC ở một số khu vực Đông Bắc Bộ, Việt Nam”. Dự án do Hội đồng Liên trường các trường đại học Vương quốc Bỉ hỗ trợ thực hiện trong thời gian 5 năm với mục tiêu chính là nâng cao năng lực của các đối tác Việt Nam trong lĩnh vực kể trên.

+ Trong các năm 2003 và 2004, đã tiến hành điều tra, nghiên cứu các giá trị địa chất - địa mạo và cảnh quan ở Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pu Luông, tỉnh Thanh Hóa và giúp UBND tỉnh Hòa Bình thành lập mới Khu Bảo tồn Thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông. Viện đã tổ chức thành công Hội nghị liên ngành quốc tế về Bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đá vôi (Transkarst, 2004), trong đó xây dựng các CVĐC được coi là giải pháp tối ưu rất đáng quan tâm. Kết quả của Hội nghị đã được tổng kết và biên soạn thành cẩm nang “Phát triển bền vững các vùng đá vôi ở Việt Nam” [8].

+ Từ năm 2005 đến nay, Viện đã và đang hợp tác với UBND tỉnh Bắc Cạn và Vườn Quốc gia Ba Bể chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới, trong đó các tiêu chí địa chất - địa mạo và cảnh quan đóng vai trò quyết định [6]. Viện đã và đang hợp tác cùng các chuyên gia Italia khảo sát địa chất karst khu vực Vịnh Hạ Long với mong muốn góp phần xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận mở rộng khu di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long, và đang phối hợp với Ban Quản lý Khu Dự trữ Sinh quyển Quần đảo Cát Bà, Hải Phòng để xây dựng đề án thành lập CVĐC tại khu vực này.

+ Ngày 19/9/2007, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản và Bảo tàng Địa chất đã ký bản Ghi nhớ về hợp tác toàn diện trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là lĩnh vực nghiên cứu DSĐC.

+ Cuối năm 2007 đến nay, Viện phối hợp với một số cơ quan trong nước cùng thực hiện đề tài: “Điều tra nghiên cứu các di sản địa chất và đề xuất xây dựng công viên địa chất ở miền Bắc” mã số KC 08.20/06-10. Đây là đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước đầu tiên về lĩnh vực này được thực hiện ở nước ta.

+ Hiện nay, để tập trung sức mạnh, hoạt động có tổ chức và nhất quán, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới trong lĩnh vực phát triển nghiên cứu DSĐC, Viện đang nỗ lực cùng với Uỷ ban UNESCO Việt Nam và các cơ quan hữu quan đề xuất và xúc tiến thành lập Uỷ ban Quốc gia Công viên Địa chất ở Việt Nam.

Như trên có thể thấy, ở giai đoạn 1 của quá trình nghiên cứu DSĐC được tiến hành khá tốt. Các nhà địa chất Việt Nam đã tiếp cận nghiên cứu, nhận dạng, mô tả, phân loại các DSĐC theo hệ thống nghiên cứu chung của thế giới. Kết quả nghiên cứu đã thành lập được hai khu di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận theo tiêu chí địa chất - địa mạo, đã đề xuất thành lập các KBTĐC và xây dựng CVĐC - đó là hướng đi đúng đắn. Tuy vậy, việc ứng dụng triển khai các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn phát triển lĩnh vực này ở Việt Nam còn rất yếu. Vì thế đến nay chưa có KBTĐC nào được thành lập ở nước ta.

2. Công tác xây dựng công viên địa chất ở Việt Nam

Xây dựng CVĐC là bước phát triển tiếp theo của công tác nghiên cứu DSĐC và thành lập các KBTĐC, là giải pháp tốt nhất để bảo vệ DSĐC (đây cũng là bài học kinh nghiệm của các nước phát triển trong công tác bảo tồn DSĐC), là bước khai thác bền vững tiềm năng tài nguyên DSĐC. Bởi vì CVĐC được thành lập (trong đó sẽ có Bảo tàng địa chất ngoài trời) là nơi lưu giữ, bảo tồn, quản lý và khai thác hợp lý DSĐC cho sự phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước. Theo đánh giá của các nhà địa chất, đối chiếu với các tiêu chí của UNESCO về xây dựng - xếp hạng CVĐC thì Việt Nam rất có tiềm năng phát triển CVĐC với đủ các cấp độ, từ cấp quốc tế → quốc gia → địa phương. Theo tài liệu nghiên cứu bước đầu trong lĩnh vực này, các đối tượng tiềm năng cho CVĐC cấp quốc tế là các vùng: Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng; cấp quốc gia là các vùng: quần đảo Cát Bà, hồ Ba Bể, núi Phan Si Pan, cao nguyên đá vôi Đồng Văn - Mèo Vạc, rừng Cúc Phương - Ngổ Luông, ghềnh Đá Đĩa, thác Trinh Nữ… . Tiềm năng thì rất lớn, nhưng công việc xây dựng CVĐC chưa được đầu tư thực hiện. Từ phía Chính phủ, do ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn cho nên chưa có sự đầu tư đúng tầm và dài hơi cho lĩnh vực này. Về phía các doanh nghiệp, các công ty ngoài quốc doanh, các nhà đầu tư (tư nhân) Việt Nam cũng có nhiều khó khăn do mới bước vào nền kinh tế thị trường, chỉ dám đầu tư nhỏ lẻ cho những lĩnh vực sản sinh ngay lợi nhuận trước mắt. Mặt khác, cùng với nhận thức hạn chế về tiềm năng, vai trò và ý nghĩa khoa học - thực tiễn của DSĐC, về mối quan hệ bảo tồn và khai thác hợp lý DSĐC... nên hầu hết các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam chưa dám đầu tư lớn cho lĩnh vực mới mẻ này trên cơ sở hạ tầng yếu kém. Vì thế, cho đến nay nước ta chưa có CVĐC nào được xây dựng.

 

Tóm lại, công tác nghiên cứu DSĐC (giai đoạn 1) được các nhà địa chất Việt Nam thực hiện khá tốt, cách tiếp cận vấn đề và giải quyết vấn đề nghiên cứu DSĐC có cơ sở khoa học, phù hợp với cách làm của thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Việc thành lập các KBTĐC (thuộc giai đoạn 2 kế tiếp) mới chỉ đạt được mục tiêu quản lý DSĐC. Và xây dựng CVĐC (thuộc giai đoạn 3) mới đạt được mục tiêu bảo tồn và khai thác hiệu quả, hợp lý các giá trị của DSĐC cho sự phát triển bền vững. Cả hai công việc này đã được các nhà địa chất đề xuất nhưng chưa được tiến hành, cho nên tính đến thời điểm này nước ta chưa có KBTĐC và CVĐC nào được thành lập và xây dựng. 

 

3. Công tác bảo tồn và quản lý DSĐC

Công tác bảo tồn và quản lý DSĐC đang có nhiều bất cập và gần như bỏ ngỏ, các DSĐC đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại do tác động của tự nhiên và con người từ nhiều phía. Đối với các yếu tố xâm hại tự nhiên (do thiên nhiên), cần được đầu tư nghiên cứu để bảo quản, phòng ngừa nhằm giảm thiểu tác hại, thiên tai. Thực hiện công việc này rất khó khăn và còn xa vời đối với Việt Nam do nền kinh tế nước còn thấp kém. Đối với các yếu tố xâm hại do con người, cần ban hành rộng rãi các văn bản pháp quy với chế tài đủ mạnh, đi đôi với việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc bảo tồn DSĐC.

Hiện trạng công tác bảo tồn DSĐC còn kém so với bảo tồn thiên nhiên khác (như bảo tồn cảnh quan và đa dạng sinh học). Để bảo tồn cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học, từ năm 1962 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ra quyết định thành lập được 128 khu Rừng đặc dụng, 28 Vườn quốc gia, 62 khu Bảo tồn thiên nhiên và 38 khu Rừng bảo vệ cảnh quan, trong đó có một số khu bảo tồn đặc biệt, được Quốc tế công nhận như Di sản Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và Di sản Thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng. Trong khi đó, công tác bảo tồn DSĐC ở Việt Nam còn ở mức độ thấp, chưa có một KBTĐC nào được thành lập. Sự thật cũng đáng để suy nghĩ: cả hai di sản thiên nhiên thế giới của Việt Nam là Vịnh Hạ Long và Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận, trong đó các tiêu chí địa chất - địa mạo có vai trò quyết định. Thậm chí các ứng cử viên tiềm năng cho danh hiệu này là hồ Ba Bể, quần đảo Cát Bà, cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc… cũng dựa chủ yếu trên các tiêu chí địa chất - địa mạo.

 

Hiện nay, các văn bản pháp quy liên quan tới bảo vệ bảo tồn di sản nói chung đã có. Từ các văn bản pháp quy có hiệu lực cao là các luật (như: Luật Di sản, Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ Môi trường...); văn bản dưới luật có các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện luật; và các thông tư của các Bộ ngành, liên Bộ ngành, đến các văn bản pháp quy ở mức thấp hơn là các quy định, nội quy, quy chế của chính quyền địa phương (như tỉnh, huyện, xã) và các cơ quan quản lý trực tiếp (là các Ban quản lý ở các Khu di sản, Vườn quốc gia…). Nội dung các văn bản này còn chung chung, khái niệm về DSĐC chưa được xác định và làm rõ, chưa có chế tài đủ mạnh để răn đe. Công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức cộng đồng về khoa học địa chất, về DSĐC, về bảo vệ môi trường thiên nhiên... còn yếu kém cả về nội dung lẫn hình thức. Người dân và thậm chí cả các doanh nghiệp, cơ quan chủ quản chưa nhận thức được ý nghĩa to lớn, thiết thực của việc bảo tồn DSĐC, vì vậy luôn có sự xung đột giữa phát triển cơ sở hạ tầng (như xây dựng nhà cửa dịch vụ, nhà dân sinh, làm đường giao thông, khai thác khoáng sản...), phát triển dịch vụ du lịch với bảo tồn DSĐC, xung đột giữa mức thu nhập kiếm sống hàng ngày của người dân nghèo với bảo vệ bảo tồn DSĐC... . Vì thế nhiều DSĐC đã bị phá huỷ, như di sản hoá thạch cá ở Đồ Sơn (Hải Phòng) do làm đường giao thông, hoá thạch thực vật ở Nà Dương (Lộc Bình, Lạng Sơn) do khai thác than (Ảnh 1), đá bazan dạng cột ở xã Đăk Nia (Đăk Nông) do khai thác làm đá cảnh và vật liệu xây dựng (Ảnh 2), hay các bề mặt karst, thạch nhũ trong hang động đá vôi, núi đá vôi (ở các DSĐC trên vùng núi đá vôi) do người dân khai thác làm hòn Non bộ (Ảnh 3), khai thác đá vôi cho xây dựng ...


 

  

 

 
a

 
b

 

Ảnh 1 a, b. Các thân cây hoá thạch ở bãi thải khai thác than Nà Dương, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn (Ảnh: La Thế Phúc, 2007).

a

b

 

Ảnh 2 a, b. Khai thác đá bazan dạng cột ở thôn 9, xã Đăk Nia, huyện Đăk Nông,
tỉnh Đăk Nông
(Ảnh: Nguyễn Văn Quý, 2005).

 

a

 

b

 

Ảnh 3 a, b. Các nhũ đá, chuông đá và bề mặt karst được khai thác để bán làm hòn non bộ (Ảnh: Nguyễn Việt Hưng, 2008, chỉ mang tính minh họa).

     

Như vậy, cũng có thể dễ dàng nhận thấy lý do: vì chưa có sự thẩm định các KBTĐC của cấp thẩm quyền nên chưa có một khu BTĐC nào được thành lập. Các DSĐC nằm trong các vườn quốc gia (hay các khu bảo tồn di tích lịch sử văn hoá, bảo tồn thiên nhiên nói chung) đương nhiên được quản lý, bảo vệ bảo tồn; còn các DSĐC không nằm trong các vườn quốc gia, không thuộc các khu bảo tồn thiên nhiên, không thuộc các khu bảo tồn di tích lịch sử văn hóa ... tức là phân bố rải rác ở các địa phương thì không được quản lý, bảo vệ bảo tồn và thỏa sức bị xâm hại.

III. THẢO LUẬN

Công tác thành lập các KBTĐC và xây dựng CVĐC đã được đề xuất, nhưng chưa được thực hiện, có thể do 3 nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất là do điều kiện kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn nên chưa có sự đầu tư đúng tầm cho lĩnh vực nghiên cứu mới này. Thứ hai là do chưa có cơ sở khoa học - pháp lý rõ ràng cho việc tổ chức triển khai thẩm định, xét duyệt, phân loại, xếp hạng các DSĐC, các KBTĐC và xây dựng CVĐC, và chưa có sự thống nhất, đồng bộ, rành mạch trong quản lý di sản thiên nhiên nói chung và DSĐC nói riêng cả từ vĩ mô đến vi mô. Thứ ba do nhận thức của cộng đồng về phát triển lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, trong đó có cả các nhà quản lý và các nhà khoa học, địa chất.

Trên thực tế, các nhà địa chất Việt Nam chưa có tư duy thực tiễn phát triển kinh tế liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu DSĐC, chưa có kinh nghiệm thuyết phục, kêu gọi đầu tư ở các Bộ ngành, cơ quan khác nhau từ Trung ương đến địa phương, chưa mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác và thuyết trình với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Để khắc phục sự chậm trễ trong quá trình nghiên cứu và phát triển DSĐC cần phải tiến hành đồng thời các giải pháp sau đây:

1. Giải pháp vĩ mô: cần có sự chỉ đạo thống nhất từ Chính phủ đến các Bộ nghành, bắt đầu từ việc xác định mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu DSĐC, đến việc xây dựng cơ sở khoa học và pháp lý nhằm thiết lập các tiêu chí khoa học và tạo lập hành lang pháp lý (các văn bản pháp quy đi kèm với các chế tài đủ mạnh) cho việc nghiên cứu DSĐC, thành lập các KBTĐC và xây dựng CVĐC. Tiến độ thực hiện công việc này phụ thuộc vào các nhà lãnh đạo và quản lý điều hành vĩ mô cùng với sự hợp tác của các nhà khoa học chuyên ngành. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy cần làm tốt giải pháp này. Cụ thể như sau: năm 1985, các nhà địa chất Trung Quốc đề nghị thành lập các KBTĐC, thì năm 1987, Bộ chủ quản đã ra “Thông tư về việc thành lập các KBTĐC”. Và năm 1995 ban hành các văn bản: “Quy định về việc bảo vệ và quản lý các DSĐC”, “Luật bảo tồn DSĐC”, “Luật bảo tồn di sản thiên nhiên”. Năm 2000, Bộ Đất và Tài nguyên Trung Quốc ban hành “Thông tư về tổ chức và định biên nhân lực ở các KBTĐC” và thành lập “Uỷ ban Đánh giá KBTĐC”, ban hành “Thông tư về việc đăng ký thành lập KBTĐC quốc gia” với bộ hồ sơ đăng ký mẫu, hướng dẫn báo cáo điều tra tổng thể, tiêu chuẩn đánh giá, quy hoạch tổng thể các KBTĐC quốc gia, hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban đánh giá KBTĐC quốc gia. Những tài liệu này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và quản lý một cách hệ thống các KBTĐC quốc gia ở Trung Quốc. Ngay sau đó hàng loạt các DSĐC ở nhiều địa phương được thành lập hồ sơ đăng ký để công nhận là KBTĐC quốc gia. Cuối năm 2006, Trung Quốc đã có 142 KBTĐC (quốc gia, khu vực và toàn cầu). Đây chính là cơ sở cho việc xây dựng và phát triển mạng lưới CVĐC to lớn ở Trung Quốc ngày nay. Tính đến đầu năm 2008, Trung Quốc đã có 138 CVĐC quốc gia, quốc tế và rất nhiều CVĐC địa phương nằm rải rác ở các tỉnh. Theo các cán bộ lãnh đạo quản lý của Vụ Tài nguyên và Môi trường, Sở Địa chất Trung Quốc trong buổi làm việc với đoàn công tác của Bảo tàng Địa chất Việt Nam (ngày 27/02/2008) tại Bắc Kinh, để trở thành CVĐC phải hội tụ đủ 3 yếu tố: khoa học + du lịch + địa phương. Yếu tố địa phương được đề cập ở đây chính là tính năng động của địa phương có DSĐC. Tính năng động của địa phương lại phụ thuộc vào sự nghiên cứu và tư vấn của các nhà địa chất, hay có thể nói là phụ thuộc vào tính năng động và trình độ marketing của các nhà địa chất. Điều đó cho thấy các nhà địa chất có vai trò đặc biệt quan trọng và tiên quyết cho việc phát triển lĩnh vực này.

Trong tương lai gần, kết quả của đề tài: “Điều tra nghiên cứu các di sản địa chất và đề xuất xây dựng công viên địa chất ở miền Bắc Việt Nam(2008-2010) sẽ xây dựng сơ sở khoa học và pháp lý cho việc phân loại, xếp hạng DSĐC, các KBTĐC và xây dựng CVĐC, làm nền tảng cho sự phát triển lĩnh vực nghiên cứu này ở Việt Nam.

2. Nhóm giải pháp vi mô: Đi đôi với các văn bản pháp quy với chế tài đủ mạnh, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức cộng đồng về DSĐC. Phải làm cho người dân hiểu rõ ý nghĩa của DSĐC và khả năng không tái tạo được của nó, các giá trị khoa học, giá trị kinh tế và vai trò phát triển kinh tế xã hội của DSĐC. Một khi cộng đồng đã hiểu được vai trò, ý nghĩa của DSĐC thì họ sẽ có ý thức bảo tồn và khai thác sử dụng hợp lý DSĐC cho sự phát triển bền vững, đặc biệt là đối với người dân ở những địa phương có DSĐC, họ sẽ hiểu được chính họ là người sẽ được hưởng lợi trước tiên từ DSĐC. Như vậy, trên cơ sở pháp lý (các văn bản pháp luật và dưới luật, các quy định, nội quy…) cùng với sự hiểu biết và tự giác của người dân, vấn đề bảo vệ bảo tồn DSĐC (tránh sự xâm hại của con người), vấn đề quản lý và khai thác hợp lý DSĐC cho sự phát triển bền vững kinh tế xã hội sẽ được thực hiện tốt.

Dưới góc độ triết học thì trên đây mới chỉ là điều kiện “cần”, thuộc về “ý thức”;  còn thiếu điều kiện “đủ”, thuộc về “vật chất” - đó là điều kiện kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam, nhìn chung, còn thấp kém, mọi đầu tư phát triển đều tập trung vào những lĩnh vực sản sinh lợi nhuận trực tiếp trước mắt, chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất dịch vụ; tỷ phần đầu tư cho công tác nghiên cứu còn rất thấp. Đầu tư cho nghiên cứu nói chung ở VN có 3 nguồn: thứ nhất là từ phía Nhà nước; thứ hai là từ phía nhân dân hay các doanh nghiệp, doanh nhân; thứ 3 là từ nước ngoài, trong đó, các nguồn thứ nhất và thứ hai thuộc nguồn nội lực, hiện đang gặp rất nhiều khó khăn do cả 2 yếu tố khách quan (do đất nước còn nghèo) và chủ quan (do nhận thức cộng đồng từ vĩ mô đến vi mô đối với DSĐC) chi phối; còn thứ ba thuộc nguồn ngoại lực. Việt Nam đã mở cửa hội nhập, nguồn đầu tư nước ngoài khá lớn nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, cầu đường…., còn lĩnh vực nghiên cứu DSĐC và xây dựng CVĐC do ít người biết đến nên chưa được chú ý đầu tư. Trao đổi hợp tác quốc tế về nghiên cứu ứng dụng để hai bên cùng có lợi là việc làm cần thiết và hữu hiệu đối với một nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta. Vì thế, không nên chỉ trông chờ vào đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, các nhà địa chất Việt Nam cần tận dụng cơ hội, mở rộng quan hệ hợp tác kêu gọi đầu tư từ nhiều phía (cả tổ chức và cá nhân) trong và ngoài nước để khai thác nguồn tài nguyên DSĐC to lớn này cho sự phát triển bền vững đất nước.

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Nghiên cứu DSĐC đã được các nhà khoa học địa chất Việt Nam chú ý đề xuất triển khai, tiếp cận giao lưu hội nhập quốc tế. Những kết quả đạt được bước đầu rất đáng khích lệ. Các nhà địa chất đã nghiên cứu phân loại và đề nghị xếp hạng cho các DSĐC, đề nghị thành lập và xếp hạng hàng chục KBTĐC, đã định hướng các nghiên cứu tiếp theo phù hợp với xu hướng chung của thế giới;

2. Tốc độ phát triển lĩnh vực nghiên cứu DSĐC còn rất chậm so với các nước trong khu vực và trên thế giới; vì thế đến nay chưa có KBTĐC nào được thành lập và chưa có CVĐC nào được xây dựng ở Việt Nam;

3. Đề nghị các cấp thẩm quyền sớm hoàn thiện và ban hành các văn bản pháp quy liên quan tới công tác nghiên cứu phát triển DSĐC (như bảo tồn DSĐC; cơ sở khoa học - pháp lý cho việc đăng ký, xét duyệt và thành lập các KBTĐC, xây dựng CVĐC; tổ chức đánh giá, thẩm định và xếp hạng các DSĐC, các KBTĐC và CVĐC; tổ chức quản lý và khai thác DSĐC…), trước mắt là các văn bản pháp quy đi đôi với chế tài đủ mạnh về bảo vệ bảo tồn DSĐC để kịp thời ngăn chặn xung đột giữa hoạt động kinh tế dân sinh với bảo tồn DSĐC, di sản thiên nhiên;

 

4. Nghiên cứu DSĐC cần phải được xác định là một trong các nhiệm vụ chính thống và quan trọng trong các chương trình điều tra cơ bản về địa chất, các chương trình khoa học công nghệ trọng điểm của nhà nước về khoa học Trái đất, các đề án, đề tài nghiên cứu khoa học về địa chất của các bộ ngành liên quan;

5. Các nhà địa chất cần năng động hơn nữa trong việc nghiên cứu ứng dụng DSĐC, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác trong và ngoài nước, chịu khó marketing (đến các địa phương có DSĐC, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, đến các tổ chức, doanh nhân giàu tiềm lực…) để hợp tác nghiên cứu và kêu gọi đầu tư (trong nước cũng như quốc tế) nhằm phát triển lĩnh vực nghiên cứu này ở Việt Nam.

Công trình được hoàn thành dưới sự hỗ trợ của Đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước mã số KC 08.20/06-10.

VĂN LIỆU

1. Nguyễn Quang Mỹ (Chủ biên), 2006. Việt Nam, di sản thế giới - Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

 

2. Nguyễn Quang Mỹ, Howard Limbert và nnk, 2001. Kỳ quan hang động Việt Nam. Trung tâm Bản đồ và tranh ảnh giáo dục, Hà Nội.

 

3. Trần Đức Thạnh, 1998. Lịch sử địa chất vịnh Hạ Long. Nxb Thế giới, Quảng Ninh.

 

4. Trần Đức Thạnh, Waltham Tony, 2001. The outstanding value of the geology of Hạ Long Bay. Advances in Nat. Sci., 2/3.

 

5. Trần Nghi (Chủ biên), 2003. Di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình, Việt Nam. Cục ĐC và KS VN, Hà Nội.

 

6. Trần Tân Văn, Phạm Khả Tùy, Thái Duy Kế, Bùi Văn Định, Nông Thế Diễn, 2005. Con đường tiến tới danh hiệu Di sản Thiên nhiên thế giới của Vườn Quốc gia Ba Bể (Bắc Cạn). Địa chất và Khoáng sản, 9 : 529-545. Viện Nghiên cứu ĐC & KS. Hà Nội.

 

7. Tran Tan Van, Pham Kha Tuy, Thai Duy Ke, 2004. Geological characteristics and values of the Pu Luong nature reserve, Thanh Hoa province, Vietnam. Proc. of the Intern. Transdisc. Conf. on Dev. and Cons. of Karst Reg., Hà Nội.

 

8. Trần Tân Văn, Vũ Thanh Tâm, Đỗ Tuyết, Nguyễn Xuân Khiển và nnk., 2005. Phát triển bền vững các vùng đá vôi ở Việt Nam. Văn phòng UNESCO, Hà Nội.

 

9. Trần Văn Trị, Lê Đức An, Lại Huy Anh, Trần Đức Thạnh, Tony Waltham, 2003. Di sản thế giới Vịnh Hạ Long: Những giá trị nổi bật về địa chất. TC Địa chất, A/277 : 6-20. Hà Nội.

 

10. Trịnh Dánh (Chủ biên), 2004. Báo cáo “Nghiên cứu các khu bảo tồn địa chất ở Việt Nam”. Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.

 

11. UNESCO, 2007. Global geoparks network. Guidelines and criteria for National Geoparrks seeking UNESCO’s assistance to join the Global Geoparks Network.

12. Wolfgang Eder, 2004. The global UNESCO network of geoparks. Proc. 1st Intern. Conf. on Geoparks, pp. 1-3. Beijing, China.
(Nguồn: www.idm.gov.vn)
 
Ý KIẾN CHIA SẺ
Tên của bạn:
Email:
Tiêu đề:
Nội dung: